LỊCH SỬ CHỮ
QUỐC NGỮ .
Người Việt ta từ ngàn năm xưa
đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái
thành từ. Chữ Việt có trước cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán.
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam đã có những khám phá và còn tiếp tục
truy tìm. Cùng với các nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp
và nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt
đã có chữ viết riêng từ trước kỷ Công nguyên (BC).
Bộ chữ này lưu lại trong nền
văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác
đã được khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới
Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu giống nhau, những hình con nòng nọc là những
tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là
chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn
xưa
Tổ tiên chúng ta đã từng phải
sống qua một quá trình đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn
hóa Việt Nam chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt
cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời
bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng,
linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt. Hịch khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt
cổ.
Trống đồng Đông Sơn tại Bảo
tàng Guimet, Paris, Pháp
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.... " Sách này còn viết rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện."
Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…"
Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
Hịch khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, viết bằng chữ Khoa
Đẩu.
Chữ Việt cổ trên thân Trống
Đồng Lũng Cú.
Tuy nhiên, với chí khí bất
khuất của người Việt, luôn khát vọng độc lập tự do, ông cha ta từ chữ Hán tượng
hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm để sử dụng, nhằm mục đích giữ gìn nền văn hoá
Việt Nam cận đại và bản sắc văn hóa thuần túy dân tộc
Việt.
Nhìn chung Việt Nam
vào thời điểm lịch sử cổ, trung
đại, vẫn chưa chính thức có
trường lớp nào dạy nói và viết tiếng Việt. Người Việt chúng ta ngày xưa đa số
được học (nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt lòng mẹ, trong sinh hoạt gia đình và
thông qua những giao tiếp hàng ngày ngoài xã hội là chính. Ở giai đoạn này chữ
viết vì chưa truyền bá phổ thông trong dân chúng nên các câu Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ
ngắn, dài (1) nhờ có vần, có điệu, nên mau
thuộc và dễ nhớ; là loại văn chương ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng rãi
trong nhân gian và ngày càng phong phú, súc tích.
Trong quá trình xã hội phát
triển, dân tộc Việt Nam ta đã tiếp xúc giao lưu với nhiều dân tộc khác. Trong
tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau, vấn đề học hỏi và hiểu rõ ngôn ngữ của
nhau trở nên nhu cầu cần thiết.
Vào thế kỷ XV. Sứ thần Trung
Quốc đã phải nhờ đến các cơ quan phiên dịch ở Trung Quốc như Hội thông quán, Tứ
Di quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm vụ phiên dịch mỗi khi giao tiếp với Việt Nam.
Các cuốn từ vựng đối chiếu tiếng Hán với một số thứ tiếng khác được lần lượt
biên soạn, trong đó có cuốn An Nam Dịch Ngữ (*) là cuốn từ điển dùng để đối
chiếu tiếng chữ Hán với chữ tiếng Việt.
(*) An Nam Dịch Ngữ là bản từ
vựng dùng cho cơ quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách giao dịch với Việt Nam
từng phải triều cống.
Giai đoạn năm 939, thời Vua
Ngô Quyền lập quốc, các triều đại Vua Việt Nam đã mượn chữ Hán (chữ Nho) để sử
dụng trong hành chánh, học thuật. Tuy nhiên, người Việt vẫn nói tiếng Việt,
không công nhận chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ. Tổ tiên ta luôn tìm cách sáng tạo ra quốc
ngữ riêng và đã dựa trên chữ Hán để chế ra
chữ Nôm. Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình
Bộ Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế
cá sấu” (2) bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm
được xem là Quốc ngữ bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An
(1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn
Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) của thi hào
Nguyễn Du, là một trong những tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng
kể của chữ Nôm đã đóng góp cho
nền văn hoá Việt Nam cận đại.
Tuy nhiên, chữ Nôm vì được cấu
tạo trên căn bản chữ Nho, nên khi muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Nho (chữ
Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học, không phổ thông trong dân chúng, và ít được sử dụng
rộng rãi.
(Sách cổ viết chữ
Nôm)
Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát triển nhanh chóng. Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt. Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.
Bản Kinh lạy Cha được viết
tay năm 1632 nguyên bản như sau:
Từ điển Việt-Bồ-La
Hình bìa “Sách Phép Giảng
Giáo Lý Tám Ngày”
Link sách DOWN
LOAD (Phép Giảng Giáo Lý Tám
Ngày) (Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng (pdf) https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG%208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20-%20%20Cathechismvs%20%20%20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf
Ðây là sách giáo lý
được biên soạn để giúp cho các cha truyền dậy giáo lý tại Việt nam. Cuốn sách
được in bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm
hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ
La tinh, bên tay phải là chữ Việt. Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo
sĩ Alexandre de Rhodes - Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho
hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần
La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang. Sách không chia ra từng chương,
mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như
một giáo trình sư phạm.
Giáo sĩ Alexandre de
Rhodes
Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi. NGHE & Down load (AUDIO BOOK THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)
(Trích đoạn trong sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Nghiên cứu
của linh mục Ðỗ Quang Chính, do nhà sách Ra Khơi xuất bản tại Sài gòn năm
1972).
Giai Ðoạn Sơ Khởi
(1620-1626):
Các nhà truyền giáo Âu Châu đã
đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. Nhưng mãi sang đến đầu thế kỷ 17
những hoạt động truyền giáo này mới được ghi lại khá đầy đủ. Khởi đầu, các nhà
truyền giáo đã đến Hội An để giúp đỡ các giáo hữu người Nhật. Hội An (Hội Phố)
thời ấy là một cảng buôn bán sầm uất, với những phố riêng cho người Nhật và
người Hoa.
Theo sách cũ, người Âu Châu
đầu tiên thạo tiếng Việt là linh mục Francisco de Pina, người Bồ Ðào Nha
(Portugal) (3) . Năm 1620, với sự công tác của người bản xứ, các tu sĩ Dòng Tên
(Jésuite) tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng chữ Nôm. Từ năm 1621 trở
đi, các nhà truyền giáo đã bắt đầu chuyển qua mẫu tự abc những địa danh, tên
tộc, và từ-ngữ Việt trong những bản tường trình cho giáo hội về hoạt động của
họ.
Dựa vào những tài-liệu viết
tay còn được lưu trữ, trong giai-đoạn sơ khai của chữ Quốc Ngữ, các chữ thường
được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ:
- Annam = An
Nam
- Unsai = Ông
Sãi
- Ungue = Ông
Nghè
- Bafu = Bà
Phủ
- doij =
đói
- scin mocaij = xin một
cái
- Sayc Chiu = Sách
chữ
- Tuijciam, Biet = Tôi chẳng
biết
.Giai Ðoạn Hai
(1631-1648).
Những tài-liệu viết tay trong
giai-đoạn này, đặc biệt là của linh mục d’Amaral, cho thấy chiều hướng mới trong
cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đã được bỏ dấu. Nhiều chữ
được viết như ta hằng thấy ngày nay. Thí dụ như:
· Nghệ
An
· Bố
Chính
Nhiều chữ nhìn tương tự nhưng
có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác
· Thính
hoa: Thanh Hóa
· oũ
bà phủ: Ông bà Phủ
· hụyen:
huyện
· sãy:
sãi
Ngoài những bản tường trình,
giai đoạn này còn có ba tài-liệu quan-trọng khác. Một là biên-bản hội-nghị năm
1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng tiếng
Việt Nam (4) . Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của linh mục Gaspar d’Amaral
(Diccionário anamita-português-latim). Ba là cuốn tự-điển Bồ-Việt (Diccionário
português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa (5) .
Ðến năm 1972, biên bản cuộc
hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố Dòng Tên tại La Mã (6) . Còn hai cuốn tự-điển
kia, lúc đầu được tàng trữ tại Văn Khố Dòng Tên tỉnh Nhật Bản tại Macao, đã mất
tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này từ Macao qua Manila (Phi Luật Tân),
từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha). Sở dĩ chúng ta còn biết đến hai cuốn tự-điển
này là vì chính Ðắc Lộ, trong lời tựa của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản năm 1651,
đã viết rõ là ông đã dùng hai cuốn tự-điển trên để soạn-thảo cuốn tự-điển của
mình.
Giai Ðoạn Ba
(1649-1651):
Giai đoạn này được đánh dấu
bằng sự thống nhất cách viết chữ Quốc Ngữ và việc ấn hành hai cuốn sách quốc ngữ
đầu tiên của Ðắc Lộ (7) . Hai cuốn ấy là:
· Dictionarivm
annamiticvm, lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide
in lvcem editvm. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae
Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°
· Cathechismvs
pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám
ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope
Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes
è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma,
1651, in-4° . (Hết
phần trích dẫn)
Toàn Quyền Đông Dương Martial
Merlin (Bên phải hình)
Mãi cho đến ngày 18 tháng 9
năm 1924 (Giai đoạn Pháp
thuộc), toàn quyền Đông Dương Martial
Merlin (1923-1925) đã ký quyết định chính thức cho dạy chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu
cấp tiểu học, được phổ biến rộng rãi toàn quốc. Sự ra đời và truyền bá chữ Quốc
ngữ mọi nơi, trong các trường học, đã giúp cho người Việt
Nam, dễ dàng học hỏi, nghiên cứu
khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua sách báo, nâng cao nhận thức, dân trí phát triển
cao hơn và nhanh hơn so với các nước trong
vùng.
Cũng nhờ từ
đấy, người Việt, tiếng Việt đã thật sự hoàn toàn thoát được ảnh hưởng chính sách
Hán hóa của Trung Hoa đã đô hộ nước ta trong suốt gần 1000 năm.
Học sinh trường Công giáo tỉnh
Nam Định
Tinh thần sĩ phu (Nho giáo)
xưa, ít nhiều bị lệ thuộc chẳng những Nho giáo mà cả văn hóa Trung Hoa. Việc
bãi bỏ Nho học và thay đổi chữ viết từ chữ Nho (chữ Hán ) sang Quốc ngữ, đã giúp
Việt Nam chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn lệ thuộc chữ Hán và văn hóa Trung
Hoa.
Vì đắm chìm lâu đời trong văn
hóa Trung Hoa, nên có người lầm tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc,
và những anh hùng, liệt nữ Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa Việt,
lịch sử Việt. Các tác giả chữ Nho xưa thường dùng điển tích về những vua quan,
anh hùng, thần thánh, phong tục, tập quán của Trung Hoa để làm mẫu mực cho người
Việt.
Nhưng từ khi có chữ Quốc ngữ,
dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi văn hóa Trung Hoa, nhiều người mới có cơ hội tìm
thấy lại cội nguồn, trở lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ đấy, nền văn
hóa dân tộc càng ngày càng được đề cao trong nền văn
học Quốc ngữ, trong Sử sách giáo khoa: Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương, Ngô Quyền,
Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung mới là những anh hùng đích
thực, những tấm gương sáng trong lịch sử của người Việt Nam.
Nhưng bất hạnh thay cho đất
nước Việt Nam ngày hôm nay, (Hiểm Họa Mất Nước) mà mọi người Việt Nam khắp nơi
đang phải lên tiếng báo động khi nhìn thấy cầm quyền cộng sản Việt nam đã và
đang đưa dân tộc ta trở về vòng u tối của lịch sử. Nhiều lễ hội trang trí với
hình thức, màu sắc nặng tính chất Trung Hoa, những phim ảnh Trung Hoa 24/24
giờ tràn ngập trên truyền hình, lập "viện nghiên cứu Khổng
Tử", mưu tính để chính thức đưa chương trình tiếng Hoa (Hán ngữ) vào trường phổ
thông toàn quốc nhằm mục đích Hán hóa người Việt trong nước hiện nay cùng với
nhiều hình thức khác. Song song là việc "Bộ giáo dục" cho xuất bản, in
ấn trên "Sách Giáo Khoa Lịch Sử"
với những hình ảnh bôi bác, bất
kính, miệt thị, xúc phạm các bậc tiền nhân,tổ tiên của dân tộc Việt. Và còn
nhiều chuyện đã xảy xa mới đây trong chủ trương Hán hóa, mà những ai đang quan
tâm đến vận mệnh đất nước đều biết rõ.
Lễ Gọi hồn Mã Viện chứng giám
Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây (Buổi lên đồng của đoàn văn
công Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
Hai Bà Trưng dâng rượu chuộc
tội với Mã Viện
(Buổi lên đồng của đoàn văn
công Việt nam biểu diễn tại Quảng Tây, Trung quốc)
.Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam.
Trường Trung học Adran
(Collège d'Adran) (3) Là trường dạy Quốc Ngữ
đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn từ năm 1861 -
1887.
Trường ADRAN Sài Gòn, đến năm
1954 được chia thành 2 Trường Trung Học : Trung học Võ Trường Toản và Trung học
Trưng Vương.
Hình một lớp học trong buổi
thực nghiệm ngoài trời.
Chấm dứt thời kỳ của nền giáo
dục chữ Hán, chữ Nôm: Lối học từ
chương.
Một lớp học trong giờ Địa lý.
Hình Thầy đồ và các học sinh
ngày xưa.
Quang cảnh trường thi Nam
Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912)
Giấy Khai Sinh năm 1938 còn sử
dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)
Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ
lần đầu tiên phát hành tại Sài Gòn, ngày 15/4/1865.
Trương Vĩnh Ký - Pétrus Ký
(1837-1898)
Khi nói đến chữ Quốc ngữ, và
Báo Chí Việt Nam thì cũng không thể quên công lao của Ông Trương Vĩnh Ký, ông là
người đầu tiên sáng lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam, ông là Tổng
biên tập tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên:
Ông
Pétrus - Trương Vĩnh Ký đã viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ,
trong đó có đoạn như sau:
“…Thầy Ký dạy học có làm
sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng Lang Sa (Pháp), có làm ra chữ Quốc ngữ (sic) để
người ta dễ học. Những người ký lục (thư ký) giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học
chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc
rẻ (khó dễ) cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ
viết không ra, ở đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã học đặng chữ Quốc ngữ, viết
đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc
hết…”
Tượng đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Ký cạnh
Nhà Thờ Đức Bà trước 1975.
http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=VA030117
Mãi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của ông được đem ra triển lãm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.
Mãi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của ông được đem ra triển lãm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.
Các sĩ phu của Trường Đông
Kinh Nghĩa Thục.
Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
Bài mở đầu sách Việt Nam vong
quốc sử, Phan Bội Châu.
(Không có gì đau bằng người mất nước,
cũng không có gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn
sử mất nước này, nhưng đã bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi chữ
nào...)
Chữ Quốc ngữ trong giai đoạn
này vẫn ngày càng phổ biến, đã giúp dân chúng dễ dàng học, hiểu biết những sơ
đẳng cần thiết trong đời sống, theo dõi sát các tin tức thời sự, các chuyển biến
thời cuộc chính trị trong nước và thế giới qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925
nhiều đảng phái chống Pháp được thành lập, truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ
văn yêu nước… đều viết bằng chữ Quốc ngữ.
Nền văn học Việt Nam vào năm
1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện một thể loại Văn mới, là Văn xuôi viết bằng chữ
Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập
lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với 10 năm sáng tác và hoạt động báo chí, khai sinh
nên dòng văn học lãng mạn Việt Nam. Nổi trôi trong những diễn biến lịch sử bất
lợi, khó khăn của thời cuộc đất nước lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã
cống hiến nhiều vào sự phát triển Văn Học của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế
kỷ 20. Toàn bộ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vẫn được lưu truyền tự do và
được đưa vào trong giáo trình giảng dạy Văn học tại các trường Trung học miền
Nam sau 1954 mãi cho tới 1975.
Trước năm 1975, ở miền Nam hầu như không có tranh cãi
gì nhiều về tiếng Việt, chữ Việt, ngoại trừ một vài tranh cãi nhỏ về chữ I và Y
, Lí do hay Lý do, quý vị hay quí vị …) hoặc có G hay không có G (sáng lạng hay
xán lạn). Học sinh miền Nam khi học lên đến lớp 5 (Tiểu học), lớp 6 (Trung học)
mà còn viết sai lỗi chính tả là một điều không thể chấp nhận được.
Nhưng từ khi Việt cộng cưỡng chiếm được miền Nam, thì
Tiếng Việt, Chữ Việt đã bị Việt cộng thay đổi rất nhiều, và đôi lúc trở nên thứ
ngôn ngữ quái thai. Thực ra thì chữ Việt đã được thay đổi từ lâu, ngay từ 1945
khi cộng sản còn ẩn núp dưới hai chữ Việt Minh đã dùng bạo lực,súng đạn để cưỡng
đoạt, cướp đoạt chính quyền hợp pháp của chính phủ Trần Trọng Kim.
Không phải
trong chế độ cộng sản Việt Nam không có người khá, người giỏi. Nhưng hầu hết
những người này lại chẳng có quyền hạn gì, trong khi đó thì hầu hết bọn lãnh đạo
lại ngu dốt, độc tài, ngoan cố, bạo lực nên chúng muốn nói ngang nói ngược,
người dân ai cũng phải nghe theo, chẳng ai dại gì mà lên tiếng, phê phán hay cải
sửa để bị chụp mũ
là phản động và bị bỏ tù cải tạo, mang hoạ
vào thân.
Chính vì thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm xuất hiện khắp nơi. " Đường Kách mệnh " , " Giải Fóng" Đó là Chữ Vẹm, tiêu biểu "đỉnh cao trí tuệ" XHCN.
Chính vì thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm xuất hiện khắp nơi. " Đường Kách mệnh " , " Giải Fóng" Đó là Chữ Vẹm, tiêu biểu "đỉnh cao trí tuệ" XHCN.
Thế nào là Tiếng Vẹm ?
Thế nào là chữ Vẹm ?
Chữ Vẹm cũng thế, cũng là chữ Việt. Nhưng vì nó là chữ của Vẹm đặt ra Không Đúng Cách,
Không Theo Một Nguyên Tắc Hay Quy Luật Nào Cả, nhiều chữ đọc lên, nghe rất ngô
nghê và tức cười, nên ta gọi nó là chữ Vẹm.
Với chủ trương "cải hoá" "nôm hóa" ngôn ngữ Việt, cầm
quyền Việt cộng đã lạm dụng nhiều từ thuần Việt quá mức, trở thành thô tục
như:
“Xưởng đẻ” Việt cộng đã từng dùng thay cho
“nhà bảo sanh”, “nhà ỉa” dùng thay cho nhà “vệ sinh”, hay “linh thuỷ
đánh bộ” dùng thay cho “thuỷ quân lục chiến” … và đặt ra nhiều từ sai hẳn
với nguyên nghĩa”.
Chiến dịch Bài trừ Văn Hóa Đồi Trụy ( Sài gòn, ngày
21 tháng 5, 1975)
Việt cộng đã tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm, có thể vì những lý do sau :
1) Việt cộng muốn tiêu
hủy tất cả những gì mà chúng gọi là “tàn dư của Mỹ Ngụy”
Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm được miền Nam,
việc đầu tiên mà Việt cộng làm, là bắt dân chúng phải tiêu huỷ tất cả các văn
hoá phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc " đồi trụy" "phản động".
Do đó, một số chữ của người Việt Quốc Gia miền Nam dùng, dù hay ho, lịch sự tới
đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ, không dùng đến.
Thí dụ nơi để chúng ta bài tiết ra ngoài (tiểu tiện
hoặc đại tiện), xưa ngưới Bắc gọi là nhà xí, người Nam gọi là nhà cầu. Hai tiếng
này nghe không được lịch sự cho lắm nên đã được chúng ta đổi là nhà vệ sinh. Ấy
vậy mà chỉ vì muốn khác người, bọn cán cộng vô học đã bỏ đi và thay thế bằng hai
chữ nhà ỉa.
Phải chăng đà tiến hoá theo chủ nghĩa xã hội của Việt
cộng là như vậy ? Chẳng trách dân Việt Nam nay được bọn chúng cai trị, được bọn
chúng “giải phóng” đã mỗi ngày một khổ cực, mỗi ngày một ngu si, dốt
nát.
2) Việt cộng muốn chữ của
chúng dùng phải khác chữ miền Nam chúng ta dùng.
Việt cộng, chúng chỉ muốn chữ chúng dùng phải khác
người, hay nói cho đúng hơn, là khác chữ của người Việt Quốc Gia dùng mà thôi,
chứ không phải chúng muốn “thoát ly tiếng Hán Việt” như đã từng tuyên
truyền một thời gian sau 1975.
Điều này đối với Việt cộng rất quan trọng, nhất là
trong thời chiến, vì giúp cho chúng dễ phân biệt người đang sống tại vùng chúng
đang kiểm soát với những người đang sống ngoài vùng chúng kiểm soát, để chúng dễ
khám phá ra những thành phần mà chúng cho là gián điệp, phản động.
Vì vậy, chữ chúng đặt ra hay dịch ra loại chữ mới mà
không cần biết là Hán hay Nôm, thanh hay tục, trong sáng hay tối tăm, xuôi hay
ngược, đúng hay sai. Có chữ đang là chữ Hán Việt, chúng đổi sang chữ Nôm. Có chữ
đang là chữ Nôm, chúng đổi sang chữ Hán Việt. Chúng chẳng theo một nguyên tắc
hay quy luật nào cả.
Thí dụ :
Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì vẹm nói là :
“người phát ngôn”
Chúng ta mượn tờ báo để đọc thì vẹm nói là "trao đổi
văn hóa"
Chúng ta nói là "nhà bảo sanh" thì vẹm từng nói là
"xưởng đẻ"
Chúng ta nói là “thăm viếng” thì vẹm nói là “tham
quan”
Chúng ta nói là “ghi danh” thì vẹm nói là “đăng
ký”
Chúng ta nói là “đá bóng” thì vẹm nói là “bóng
đá”
Chúng ta nói là “yếu điểm” thì vẹm nói là “điểm
yếu”
Chúng ta nói là “trở ngại” thì vẹm nói là “sự
cố”
Chúng ta nói là “xuất cảng” thì vẹm nói là “xuất
khẩu”
Chúng ta nói là “liên lạc” thì vẹm nói là “liên
hệ”
Chúng ta nói là "đồng ý" thì vẹm nói là "nhất
trí"
Chúng ta nói là "lo ngại" thì vẹm nói là "quan
ngại"
Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì vẹm nói là quán
triệt"
Chúng ta nói là "chỉ tiêu" thì vẹm nói là "tiêu
chí".
Chúng ta nói là “viên chức” thì nói nói là “quan
chức”.
Chúng ta nói là “chuyển âm” thi vẹm nói là “lồng
tiếng”.
Chúng ta nói là “dẫn giải” thì vẹm nói là “thuyết
minh"
Chúng ta nói là "mìn nổ chậm" thì vẹm nói "bom hẹn
giờ"
Chúng ta
nói là "xe hơi" thì vẹm nói là "ÔTÔ
CON"
Chúng ta nói là "Quan thuế" thì vẹm nói là "Hải
quan".
(
Hải ..)
được vẹm gọi chung cho cả sân bay, bến tàu và cửa khẩu đường bộ
Chúng ta nói là "máy phát thanh" hay (RADIO) thì vẹm
nói là "Đài".
Sau ngày 30 /4/1975 Bộ đội
nào cũng muốn mua một cái "Đài" để mang về Bắc.Tiếc rằng ở SG chỉ có mỗi một cái
Đài Phát Thanh duy nhất.
Chúng ta nói là "Trực thăng" thì vẹm nói là "máy bay
lên thẳng"
Thế thì máy bay phản
lực lên thẳng ngày nay, vertical take-off and
landing (VTOL) cũng bay lên thẳng, thì
vẹm sẽ gọi là gì để phân biệt..?
Vì ngu dốt, nên khi vẹm đảo ngược hay thay thế
bằng một chữ khác mà chúng chẳng biết và cũng chẳng cần biết là đúng hay sai nữa
hoặc lẫn lộn ý nghĩa của chữ này với ý nghĩa của chữ kia chúng cũng không
rõ.
Thí dụ 1 :
Chữ “đơn giản” mà đọc ngược lại là “giản đơn” hay
“vui buồn” đọc ngược lại là “buồn vui” tuy nghe có hơi lạ tai một chút, còn có
thể chấp nhận được vì nghĩa của nó không khác nhau.
Nhưng chữ “yếu điểm” mà sửa lại là “điểm
yếu” thì không thể chấp nhận được vì nghĩa nó khác hẳn.
Nhưng vì dốt nát, vẹm vẫn cố tình dùng chữ “điểm
yếu” thay thế cho chữ “yếu điểm”.
Chúng ta biết, về văn phạm, chữ Hán giống chữ Anh ở
một điểm là tĩnh từ luôn luôn đứng trước danh từ nên con ngựa trắng, người Anh
gọi là white horse và người Tầu gọi là bạch mã.
Chữ yếu điểm cũng vậy, yếu là tĩnh từ và có
nghĩa là quan trọng, yếu điểm là điểm quan trọng.
Nhưng vì ngu dốt, Việt cộng chỉ muốn nói khác với
chúng ta nên nói ngược lại là điểm yếu và tưởng rằng chúng đã nôm hoá được chữ
yếu điểm là chữ Hán.
Thế còn nhược điểm thì sao ? Nếu nói ngược lại
thì điểm nhược là nghĩa gì ?
Vì ngu dốt lại nhưng hay nói chữ. Vì vậy mà ngày
nay, nhiều nhà giáo Việt cộng đào tạo vẫn "hiểu" yếu điểm là điểm yếu và dậy lại
học trò như vậy.
Trò chuyện qua Yahoo Messenger với một em học sinh
hiện ở SG:
Thay vì dạy em nói "con người đó có tính nhân
bản" thì giáo viên dạy em rằng "con người đó có tính nhân
văn"
Thí dụ 2 :
Chúng ta nói :
“Xin các bạn cô gắng nhanh lên một chút vì tình trạng
gấp rút, cấp bách lắm rồi”
Thì vẹm lại nói:
“Xin các đồng chí tranh thủ ,khẩn trương vì tinh
trạng khẩn trương rồi”.
Chúng ta dùng chữ cố gắng cho mệnh đề thứ nhất và chữ
gấp rút cho mệnh đề thứ hai vì hai chữ này có ý nghĩa khác nhau. Nhưng đối với
chúng thì cố gắng cũng là khẩn trương và gấp rút cũng là khẩn
trương.
Thí dụ 3 :
Sau khi tham dự một buổi nói chuyện về một vấn đề văn
học, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ hỏi người tham dự :
“Xin anh cho biết cảm tưởng (cảm nghĩ) của anh
sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”.
Nhưng nếu người hỏi là một văn nô Việt cộng, thì chắc
chắn hắn sẽ hỏi người tham dự :
“Xin đồng chí cho biết cảm giác của đồng chí
sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”.
Đây chỉ là buổi nói chuyện
về một vấn đề văn học, đâu có phải là một buổi vật lộn, đấu đá ghê gớm gì mà hỏi
cảm giác ?
Nhiều khi chúng ghép hai ba chữ kép làm một khiến
người đọc chẳng hiểu mô tê gì cả hoặc một chữ đã đầy đủ ý nghĩa rồi, chúng lại
thêm một chữ nữa khiến chữ mới trở nên kỳ cục.
Thí dụ :
Hùng vĩ và hiểm trở, vẹm ghép thành Hùng
hiểm,
Tương đương và thích hợp vẹm ghép thành "Tương
thích"
Quan tâm và lo ngại vẹm ghép thành "quan
ngại"
Tối ưu chẳng lẽ vẹm đổi thành Ưu tối ?
Nên chúng thêm chữ “nhất” thành "tối ưu nhất"
Thật lạ lùng ! Đã tối
ưu rồi đâu cần phải thêm chữ nhất vào làm gì?
3) Để bóp méo và xuyên tạc Lịch sử VN
như:
Việt minh dùng vũ lực,súng đạn để cướp chính quyền hợp pháp chính phủ Trần Trọng Kim thì vẹm gọi là Cách Mạng Tháng 8 - 1945.
Việt minh dùng vũ lực,súng đạn để cướp chính quyền hợp pháp chính phủ Trần Trọng Kim thì vẹm gọi là Cách Mạng Tháng 8 - 1945.
Cờ Vàng là cờ Truyền thống của Dân Tộc có từ bao đời
thì vẹm nói là Cờ 3 que,Cờ Ngụy.
Cờ đỏ sao vàng, gốc là của tỉnh Phúc kiến,Trung cộng hiện nay vẹm dùng thì vẹm gọi là cờ tổ
quốc.
4) Không những chúng thay
đổi CHỮ, chúng còn thay đổi cả NGHĨA.
Thí dụ :
Gài mìn, pháo kích vào trường học, nhà dân, bắt cóc,
thủ tiêu, khủng bố, vẹm gọi là "hoạt động cách mạng"
Để cướp chính quyền bằng vũ lực súng đạn, vẹm gọi là
"giải phóng nhân dân"
Để cướp đất đai của các điền chủ, vẹm gọi là Cải cách
ruộng đất.
Để bao che Đảng viên, cán bộ tham nhũng hối lộ thì vẹm gọi
là “đi đêm”, “móc ngoặc”,
"có quan hệ xấu", "có hành vi tiêu
cực" để giảm án hoặc tha
tội.
Đề chìm xuồng, xóa án thì vẹm nói "Đang trong vòng điều tra"
Muốn cướp tài sản của các thương gia, vẹm gọi là
Đánh tư sản mại bản.
Cấm người dân buôn bán, vẹm gọi là Cải tạo thương
nghiệp.
Muốn trả thù quân nhân, công chức của chế độ cũ,
vẹm gọi là Học tập Cải tạo.
Xe hơi (ôtô con) chạy xăng thì chuyển ngược chạy bằng
than thì vẹm gọi là Cải Tiến
Người dân Vượt biên khi bị bắt thì vẹm gọi là "thằng
phạm, con phạm"...
Người dân Vượt biên nếu thoát thì vẹm âu yếm gọi là
Kiều bào, "Khúc ruột ngàn dặm"
Để cướp đất dân oan, vẹm gọi là KHU QUY
HOẠCH
Đập phá nhà dân oan, vẹm gọi là "giải phóng mặt
bằng"
Để sống sót, vẹm phải chuyển sang nền kinh tế tư bản
thì vẹm gọi là "Đổi mới"
Để biến dạng thành Tư bản Đỏ bóc lột nhân dân thì
vẹm gọi là "Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"
Sách báo bàn luận giải thích về Dân chủ, tự do thì vẹm gọi là tài liệu phản động,công cụ khủng bố.
Sách báo bàn luận giải thích về Dân chủ, tự do thì vẹm gọi là tài liệu phản động,công cụ khủng bố.
Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tự do, dân chủ,
vẹm gọi là phản động, có âm mưu lật đổ chính quyền.
Để điều tra và có thể tống giam, vẹm gọi là Giấy mời.
Để điều tra và có thể tống giam, vẹm gọi là Giấy mời.
Biểu tình chống Trung cộng xâm lược thì vẹm nói là
“có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị”
Biểu hiện lòng yêu nước thì vẹm nói là “kích động bạo
lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân
các nước anh em'’.
Trung cộng xâm lược biên giới Việt Trung thì vẹm chỉ
gọi duy nhất 2 chữ là "kẻ
địch".
Tàu Trung cộng bắn giết ngư dân ta thì vẹm gọi là
"Tàu Lạ Tấn Công"
Thay vì lên tiếng * (phản đối) Trung cộng, thì
vẹm lại dùng từ * (quan hệ) để giải quyết.
Tưởng niệm
các chiến sỹ bị Hải quân Trung cộng sát hại, khi in trên báo vẹm
gọi Hải quân Trung cộng
là "HẢI QUÂN NƯỚC
NGOÀI"
Và còn nhiều không thể kể ra hết những chuyện sau
1975 cho đến hôm nay...
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
Nhành Dẻ (Hình trích từ Sách Giáo
Khoa)
(Cấm Lái Xe ......Cài Quai)
Đèn Đỏ Được Đi Thẳng !!! ???
(XE THÔ SƠ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét